HOM
td>
GAME
td>
SEX ONLINE
tr>
Mãnh Thú - Chiến Thú Hộ Giáp
Ngọc Rồng Mobile - Rồng Thần Xuất Hiện
Đế Vương Mobile - Long Chiến Tam Quốc
Tây Du Ký - Hỏa Diệm Sơn
GunBound Mobile 2014
Mãnh Thú - Chiến Thú Hộ Giáp
Ngọc Rồng Mobile
Tiên Cảnh - Đại Hiển Thần Uy
Đế Vương Mobile
Hồ Ly 3D
Tin tức
game mobile cập nhật mọi lúc mọi nơi!!
Vườn Hoàng Cung - Nông Trại Online 1.0.3
Cùng quay trở lại 1000 năm trước, trở lại với những đền đài cung điện xa hoa. Được trồng cây, chăm thú, nuôi cá... trên những khu vườn thượng uyển của Hoàng Cung vô cùng độc đáo.
Anh Hùng Xạ Điêu Online
Đồng hành cùng các nhân vật trong Xạ Điêu Tam Bộ Khúc trong thế giới võ lâm. Nếu ai yêu thích các pha kiếm hiệp kinh điển thì không thể bỏ qua tựa game hấp dẫn này trên di động.
Tiên Ma Ký
Tiên Ma Ký Mobi - Game Tu Chân số 1 Việt Nam, cùng khám phá Tu Tiên chân giới huyền bí và cuộc tranh đấu không hồi kết giữa hai thế lực Tiên và Ma.
Auto Võ Lâm - Tình nghĩa giang hồ
Phiên bản Võ Lâm thu nhỏ trên mobile, với đầy đủ những tính năng đã trở thành huyền thoại như chiến trường Tống Kim, tẩy tủy Đào Hoa Đảo, săn boss Hoàng Kim hay Hoa Sơn luận kiếm.
Trang chủ
>
Chiếu Sương
ThaoDung
(
Admin
)
[ON]
ThaoDungpro
YPE html>
ThaoDung Pro
Chiếu Sương
Vào một chiều trung tuần tháng giêng, chàng trai ấy lang thang trong những ngõ hẻm làng. Chàng đi không mục đích, hồn lặng thấm cái êm ả lắng tự vòm trời trắng hơi biêng biếc như giát bạc, cáiêm ả của những cuốingày thôn dã. Chàng đi và nghĩ đến trăm điều vu vơ, những ý nghĩ thoáng qua trong trí rồi vỗ cánh bay đi, như những con bướm đa tình vội hôn đóa hoa này để đến với hoa kia.
Chàng đi lơ đãng, đến nỗi sương tỏa xuống mù trời từ bao giờ mà chàng không biết. Sương bạc đã tỏa rất nhanh,một cách bất ngờ. Thấy ẩm lạnh trên đầu và có hơi nước đọng trên mi, chàng mới ngơ ngác nhìn lên.
Cảnh vật, như dưới một đũa tiên mầu nhiệm, đã tan biến trong giây phút. Chỉ còn trơ lại quanh mình những nét thâm thâm của vài nhánh cây khẳng khiu và những vuôngxám mờ của các túp tranh. Những bụi xương rồng và râm bụt chạy hai bên đường đẫm sương, óng ánh, xanh tươi lại. Vài mạng nhện mắc giữa hai cành yếu, trắng toát như dệt bằng những sợi tơ bạc li ti.
Trời không lạnh lắm, nhưng hơi sương ngấm vào mình; chàng trai lẳng lặng trong tâm hồn buồn, cái buồn tê tái và mang mang, cái buồn ôm trùm, như kết bằng những sầu thảm nào mơ hồ và đã xa xôi lắm, tưởng tượng hay là thực, chàng cũng không biết nữa. Hơi ẩm đọng trên mi, chàng tưởng nước mắt rưng rưng.
Chàng đi lang thang, mặc hồn lang thang...Sương bay từng luồng, hạt sương bám khẽ vào da mặt như một làn phấn bụi.
Những tiếng người trao đổi trong sương,như gần như xa, lãngđãng. Ngoài sông mờ, bóng một chiếc thuyền chài sửa soạnra khơi: sương mù đãtới báo mùa cá thụ Chàng rẽ vào nhà một ông bạn già. Chàng thấy lão đang ngồi xổm đan lưới, hai chân co trước ngực, mình quàng trong một manh chiếu vuông buộc túm một đầu để khoanh lấy cổ, thứ áotơi và áo rét của dân chài.
Chàng chào, và lão Nhiệm Bình với dángđiệu giản dị của những người chất phác, vỗ vai người bạn nhỏ, bảo ngồi trên phản. Chàng hỏi:
- Cố (#1) không đi biển à?
- Không, chú ạ. Già rồi, không năng đi được nữa.
- Cố kể chuyện đi chàinghe đi.
Chàng nói thế bằng cái giọng nũng nịu của đứa cháu vòi bà. Chàng thường đến đánh bạn với lão chài, và ông lão, đối với chàng trai mới lớn, có một tình yêu thương che chở, tốt quá mức đến cưng chiều, như tình yêu thương mà tất cả những người già đùm bọc trẻ con. Lão cười đáp:
- Còn chuyện gì mà kể nữa! Chú nghe hếtcả chuyện của tôi rồi.
- Không... Cố phải kể đi... à, cố kể chuyện ma đi. Cố đi chài có bao giờ gặp ma không?
Lão Nhiệm Bình có một nụ cười hồn hậunhuốm vẻ độ lượng của kẻ không biết từ chối bao giờ.
- Chuyện ma à? Tôi cũng ít khi thấy ma lắm... Có vài lần thuyền neo ngoài khơi, tôi ngồi câu đêm, thấy giằng mạnh ở câu, vội kéo lên. ái chà, sao nặng khiếp. Mà lạ, chỉ thấy nặng thôi, như có tảng đá trì giữ lại, chứ không thấy giật giật vùng vẫy như con cá tọ Tôi nghĩ thầm: khéo lại cái nố ta (#2) rồi, hắn muốntrêu mình đây... Quả nhiên! Tôi vừa kéo câu lên khỏi mặt nước, thấy hắn xòa một cái, xanh lè cả nước biển, mình hết hồn. Nhìn lưỡi câu, con mực mồi vẫn cònnguyên.
Đó, tôi chỉ gặp vài lầnnhư vậy thôi. Đêm khuya lạnh lẽo, vắng vẻ, chắc cụ buồn tình, bày chuyện phá mình tí cho vui.
Có người họ kể, đêm ở ngoài khơi, trời êmbiển lặng, mọi người đang neo ngủ, thấy các chú bơi lù lù rồi trèo lên ngồi dăng dăng hai bên mạn thuyền; họ nói: "Thôimà, anh em mình cả, trêu nhau làm gì?", thế là cả bọn nhảy sùm xuống, bơi đi.
Mồ ma ông cụ Bình khi xưa, dạn khiếp. Nửa đêm ông ta đi lưới về, qua dưới câyđa trước miếu, một bầy hắn bíu lấy taỵ Không thấy người đâu, nhưng nghe tiếng hắn léo nhéo xin cá. Ông ta đáp:"Chà, xin với xỏ, đượcmấy con cá về cho vợcon đây!". Thấy nhẹ trong rổ, sờ vô thì cá đã biến mất. Ông ta nạt: "Đồ quỷ, cứ nghịch thôi!". Thế là tiếng cười bật lên ríurít, hồi sau lại thấy nặng rổ.
Lão chài kể như vậy, giọng bình thường như nói chuyện người dương gian (#3), tay vẫn thoăn thoắt đưa que đan qua mắt lưới. Chàng trai khẽ rùng mình thích thú. Chàng vốn không tin ma quỷ; chắc chắn đó chỉ là điều huyễn tưởng (#4), nảy sinh từ mộtkhung cảnh, một tâmtrạng nào đó; nhưng có thể nào không tin ở cái giọng kể từ tốn hiền hòa của ông lão! Trong ý nghĩ lão chài, chàng đoán, âmdương không phân ranh giới rõ ràng, cõisống và cõi chết nương nhau vấn vít. Mấy chú ma, hồn của những người dân chài đã bỏ mình trong bão tố, trở về ngồi lặng lẽ trên mạnthuyền, chắc hẳn chỉ để tìm lại chút hơi ấm cuộc đời, vì cảm thấy lòng biển quá mênh mông, lạnh lẽo. Và tuy đã tìm thấy cái chết trong tai ương (#5), bi thảm và dữ dội, không phải bao giờ hồn họ cũng ngậm giữ oán hờn; họ còn biết nghịch ngợm đùa trêu người sống,và chàng trai tưởng nghe, vẳng từ sương mù dày đặc, tiếng cười giòn ríu rít của những cái bóng vô hình cạnh cây đa già miếu cổ...
- Có bao giờ người tathấy một cái thuyền ma, hay cả một đoàn thuyền ma không, cố?
Chàng trai lại cất tiếng hỏi.
- Thuyền ma à?... à... có một lần, đã lâu lắm, chính mắt tôi thấy. Hồi ấy tôi còn trẻ lắm, tôi còn đi trai dưới thuyền mồ ma (#6) ông Phó Nhụy...Ờ cũng trời sương mù mịt như thế này, thuyền thì vừa tháo tố xong, thoát nạn chết này lại đâm liền vô nạn chết khác.
Bữa đó thuyền ra lạch...
*
* *
Sáng hôm ấy, một buổi sáng thanh quang. Bình minh giát ánh vàng trên những dải mây bông thoáng nhẹ. Các bác chài tay đưa chèo theo nhịp đều đặn, ngước nhìn trời, lòngkhông ý nghĩ, không lo lắng. Nhưng khi thuyền chạy ngang nhà Thương chính, một chiếc xuồng do hai đứa con nít chèo bỗng lướt ngang trước mũi. Mọi ngườichửi rủa chúng ầm ĩ; dân chài rất kiêng bị"ngáng đường" như thế, và ông lái hơi nhăn trán lại.
Ra khỏi lạch (#7), thuyền kéo buồm bắtcơn gió tây nam chạythẳng ra khơi. Chiếc thuyền, dáng hơi nặng nề, lừ đừ tiến, hai mắt tròn trân trân nhìn về trước. Khi một ngọn sóng kéo đến, nó chồm dậy rồi đâm chúi xuống, làm tung tóe một làn nước bạc xóa. Càng xa bờ, sóngcàng bớt mạnh, chỉ còn là những cái lượn, lưng cong và rộng, kéo lừ đừ nhưng hùng cường. Những mảnh nước lớn thốc vào dưới mũi thuyền khiến bọt trắng tóe, rồi tự rẽ đôi chảy róc rách hai bên mạn. Các bác chài đã gác chèo ngồi bện dây neo, quai chèo hay tán chuyện, có vẻ không biết đến sựnhồi lắc của sóng.
Gió lên lồng lộng, thuyền chạy phăng phăng, để lại sau mộtvạch phẳng lì, vì nước đã bị khối nặngcủa thuyền dàn ra. Nhưng chẳng bao lâu, những làn sóng lô nhô hai bên mép tiến vào và xóa mất vạch phẳng.
Càng xa bờ, gió càng mạnh, như dậy từ bốn phương của khoảng rộng. Nắng vàng và gay gắt thêm. Khi mặt trời đứng bóng, biển biếcngả sang mầu lục.
ông Phó Nhụy, nhà nghề và chạy lái, ra lệnh bỏ neo (#8). Đoạn người ta tháo dây neo cho thuyền trôi tới gần chỗ đã thả bóng hôm trước. Bóng là một cái lồng tròn lớn và đan thưa,thả lưng chừng nước, trong có lót lá tre làm chỗ êm mát rủ cá lội vào. Cạnh bóng, người ta cột vài ba cây gầy, một loại tre vầu. Cá tìm thấy ở đó một nơi nghỉ tới nhóng xung quanh, có khi hàng đàn lớn.
Hai bác chài, lặng lẽ và nhanh nhẹn, ngồi đầu mũi thả lưới, trong khi thuyền, dưới mái chèo, nhẹ tiến tới. Sau một lát chờ đợi, thuyền lùi lại và hai bác, có thêm người trợ lực, kéo dần lưới lên. Những con cá mắc đầu vào mắt lưới, giãy đành đạch làm lóe những ánh bạc biêng biếc. Vài con cánhỏ nhảy lanh tanh trong đám rong rêu lẫn những hạt tròn nhớt và trong, mà người ta gọi là trứngnước. Bình hồi ấy còn là một chú trai quèn, túm từng mảng lưới hất mạnh cho cá bật vào rổ rồi đổ dần cá xuống khoang. Từ khoang bốc lên một mùi tanhmặn và man mác, mùi của biển cả. Những con cá trích, cá đốm, lẫn cá thu, cáhồng, mắt tròn mở trân trân, há miệng méo xệu một cách tuyệt vọng cố hớp không khí, trong tiếng lách tách của vây cứng.
Thuyền nặng dần, đè ép sức lắc nhồi của sóng. Chú Trai đã đi thổi cơm. Xế trưa, thuyền nghỉ để dùng bữa. Trên mâm gỗ, lỏn thỏn hai bát cá đầy và một bát muối;cạnh mâm, một rá cơm và một xanh canh cá. Cơm xới trong bát đầy có ngọn, các bác chài vàrất nhanh như chèo đua cho chóng xong bữa. Chợt một bác kêu:
- Nhìn kìa!
Và chỉ ra phía bên trái, chỗ mặt nước lăn tăn báo có đàn cáđi quạ Mọi người vội vàng bỏ đũa, kẻ chạy đến chèo, kẻ chạy đến lưới.
Họ mê mải trong công việc trong khi trời đã ngả về chiều. Mặt trời, lúc còn ba con sào, bỗng khuất sau đám mây. Bác Hoe Trăn nhìn lên và kêu:
- Coi kìa! Trời đổ rángngoài.
Mọi người nhìn theo,lo ngại. Ông nhà nghề, hơi rụt đầu trong cổ béo, quay ngó xung quanh, cũng kêu theo:
- Sắp có tố (#9) đến nơi!
Họ vừa nhận thấy điềm báo không thể lầm lẫn. Trời đã đột ngột đổ ráng ba phương đỏ rực: ráng ngoài, nơi chân trời, và phía trong bờ, hai ráng Lò (Cửa Lò), ráng Cương (Cương Gián). Mặt các bác chài đỏ cháy lên trong ánh phản chiếu. Ông nhà nghề ra lệnh:
- Kéo lưới lên! Giương buồm!
Chân người chạy trênsạp rầm rập. Các bác chài co chân đu mìnhtrên dây để kéo buồm, miệng "dô hò"lấy nhịp. Một bác hỏi:
- Gió gì?
Người khác đáp:
- Gió trong. Khó tháo kịp.
Gió từ bờ thổi ra, thuyền cố vát (#10). Sóng vùng lên, cuốn, réo, đuổi dồn nhau, va vào nhau tóe bọt, ngụp xuống, trồi lên, đã thấy một sức mạnh hỗn độn và bấtngờ trong gió vừa cuồng lộng (#11) thổi. Buồm vát khôngăn gió, xương buồm đánh cành cạch lên cột, có khi cọ vào gỗ rít ghê tai. Hình như thuyền trôi lùi ra khơi. Nhìn vào bờ để lấy cữ, ông Phó Nhụy kêu:
- Mưa đến rồi!
Phía bờ đã mờ mịt sau màn mưa trắng bệch, mặt sóng trongkia thâm sẫm lại. Mưa tiến ra khơi rất nhanh phát thành tiếng ào ào, một giâysau, các bác chài, ngồi co mình trong tơi chiếu, đã vuốt mặt không kịp.
Một bác bảo:
- Bỏ neo thôi, không lại bạt mãi ra ngoài khơi đông xích đế cho mà coi.
Neo buông xuống nước. Trong khi dây neo tụt xuống vùn vụt, thuyền trôi lùi vềsau, đoạn giật nảy mình, chúi hẳn mũi: dây đã tháo hết. Người ta hạ buồm. Nhưng từ đó, thuyền cứ hục hặc với dây neo như một con trâu dữ bị buộc. Sóngđánh té tát, khi mũi thuyền chúi xuống thì vội thừa dịp nhảychồm, nước tóe trang lang đến tận sau lái. Nhưng rồi chiếc thuyền rấ khỏe,lại hếch cái mũi ướt sướt mướt, chờ mảng nước khác. Ông nhà nghề nhảy tới ngồi phục ở mũi thuyền, tay lăm lăm cầm con dao rựa.
Những giọt nước lớnném vào mặt ông như vốc đá cuội, khiến rát bỏng da.
Một lần, thuyền tì lại nặng quá. Nước thốc từng mảng lớn, thuyền dốc đứng tưởng như cứ thế mà đâm thẳng xuốngđáy sâu như một cái dùi. Các bác chài, miệng há ngờm ngợp vì bị nước đánhtối tăm mặt mũi, rời chỗ vịn, lăn trên sạp lông lốc. Ông nhà nghề bị ngụp trong mảng nước. Không trì hoãn được nữa! Một tay bám cọc chèo lấy thế, ông vội giơ cao con dao rựa, phăm phăm bổ xuống. Dây neo đứt phựt. Con thuyền hếtràng buộc quay mìnhtrôi phăng phăng. Các bác chài vội nhảyđến đầu mũi giúp sức ông nhà nghề hất xuống nước cái neo sắt còn lại, mà ông này vừa chặt cánh gỗ đi. Không còn cánh, mỏ neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền đáy biển như một hòn sắt nặng. Như thế, thuyền không bị giằng lại, mà cũng chỉ trôi từ từ, kéo cái neo sắt rê trên đáy cát.
Nhưng gió vun vút lên mãi, mưa bay ngang chích vào mặt dày đặc thêm, sóng giận dữ gầm réo, nổi lên như núi. Mặt người nào người nấytái mét; tuy có tơi che, quần áo họ ước mềm dính vào da, và vải đã bở sẵn, khi thấm nước rách toạc nhiều chỗ. Chú Trai, lúc nãy bị sóng đánh lăn xuống khoang, ở luôn dưới ấy tát nước, tay lia lịa đưa cái mu sam (#12). Hai bác chài tới giúp sức, chuyền cho nhaunhững thùng nước đầy để trút ra ngoài. Thuyền giằm, ít bị nhồi lắc, nhưng sóng dễ tràn lên; nước trong khoang nhiều đến nỗi cá nổi lềnh bềnh. Theo lệnh ông lái, người ta xúc cá đổ bớt ra ngoài; nhưng sóng biển, trong một hằn thù mai mỉa, đánh vào thuyền, trả lại. Những con cá đập lên áo các bác chài và nằm trắng ràn rạt trên sạp, chờ một ngọn sóng tràn qua liếm đi và thay bằng lớp khác. Thuyền nhẹbớt, nổi hơn, nhưng vì thế lại làm mồi thêm cho gió, trôi phăng phăng. Người ta bèn xở buồm (#13), buộc dây vào bốn góc, rồi thả xuống biển. Gặp nước, buồm mở tungnhư một chiếc diều mà đầu lèo (#14) đã cột vào mũi thuyền. Nước cản tấm buồm rộng căng, làm cho thuyền bớt trôi.
Đoạn, mọi người lại ngồi im lặng, co ro, cho mưa dội, sóng nhồi, gió táp. Màn mưa xám càng lúc càng sẫm thêm, rồi bóng tối ăn loang khắp không gian. Ông nhà nghề bảo:
- Anh em ai có đói, bốc nhúm gạo mà nhai.
Nhưng không ai trả lời. Họ ngồi thu mình,run run trong cái lạnh của nước ngấm vào da thịt.
Chừng quá nửa đêm - họ chỉ đoán vậy, và không còn một ý niệm nào về thời gian - sóng bớt gầm réo và bớt nhồi lắc, gió hạ dần, nhưng mưa vẫn rơi liên miên. Con thuyền mệt nhọc xang đưa (#15) lừ đừ. Và khi một ánh trắng xám ló nơi chân trời, thì biển đã lặng hẳn. Cácbác chài, tai còn đầy cái huyên náo hồi đêm, nghe trong đó ù ù như điếc. Họ không còn đủ sức để tỏ niềm vui mừng; một cảm giác mỏi mệt và co rút hầu như làm tê liệt các bắp thịt.
Mầu trắng sữa liếm dần bóng tối của vòm trời, và mưa đã ngớt hẳn. Nhưng trên mặt biển, ùn ùn từ đâu đến - dân chàibảo từ Thủy phủ (#16) đùn lên - một đám sương mù dày đặc, mang vị mặn và hơi lạnh thấm thía. Người ta kéo cái neo sắt lên, đẽo cánh mớilắp vào, rồi neo thuyền cho đứng yên. Mỗi người góp một câu để đoán vị trí của thuyền. Họ chắc ở ngang Thanh Hóa, vì trong cơn bão, gió chướng (#17) thổi từ phía tây nam. Nhưng còn cách bờ bao xa thì không ai đoán được. Một bác chài đo đượchơn năm mươi sải nước và họ biết là đãbị giạt ra ngoài khơi xa lắm.
Đột nhiên, không ai bảo ai, tất cả im lặng:họ vừa ngửi thấy một mùi kì dị, một mùi nhạt và ẩm ướt, tanh lợm như mùi rong rêu. Rồi một bóng đen dài hiện trong sương, phía trước mặt. Một người đoán:
- Chết, mình trôi đến cồn đá. Ra nãy giờ neo rê.
Một người khác đáp:
- Neo rê thì biết liền chứ. Đó là cái thuyền,nhìn kỹ mà coi.
Quả nhiên trong sương bóng đen rõ dần thành một chiếc thuyền, trên đó lố nhố những bóng người chèo. Họ chèo lặng lẽ dị thường, tưởng như thuyền lướt trên biển dầu. Một bác chài bắt loa miệng hỏi:
- Ai đó?
Thuyền bên kia có người đáp:
- Thuyền Xin Kính đây. Có phải thuyền ông Phó Nhụy bên ấykhông?
ông Phó Nhụy hỏi bạn chài:
- Tiếng ai nhỉ? Nghe giọng lạ gớm. Mà saohọ biết thuyền mình?
Đoạn cất cao tiếng:
- Tôi Phó Nhụy đây. Thuyền bên ấy cũng vừa tháo tố đó phải không? Có biết đây làđâu không?
Bên kia đáp:
- Ngang Cương Gián. Giờ phải đi xế lên màvô lạch.
Trên thuyền ông Phó Nhụy, người bàn cãi lao xao. Gió thổi từ phía nam, sao thuyềnlại giạt xuống ngang Hà Tĩnh được? ông Phó Nhụy lại hỏi to:
- Sao mà biết?
Bên kia có một câu trả lời kì quặc và bí mật:
- Sao lại không biết... à kìa, nồm vừa thổi đó, ta bắt ngọn gió này mau mà lên lạch.
Trong nháy mắt, đã thấy thuyền bên kia giương buồm. Chẳng hiểu sao họ làm nhẹnvà lặng lẽ được đến thế. Ông Phó Nhụy, tuy bụng phân vân, sai kéo buồm chạy theo. Trong lúc tâm trạng đang bơ vơ và còn in dấu vết sự hãi hùng vừa qua, ngườita không muốn rời bỏ bạn đồng hành đãgặp tình cờ.
Gió quá nhẹ, buồm không ăn gió đập phần phật. Sương tạttừng luồng như một cơn mưa trắng. Thuyền đi trước vẫn chỉ nom thấy dáng mờ mờ ảo ảo như trong giấc mơ, với quãng cách không thay đổi.
Chợt chú Trai kêu:
1
2
>>
Chia sẻ:
Cùng Chuyên Mục :
mung thanh cong ma nguon moi
Xem thêm...!
Log in